Thứ Tư, 24 tháng 4, 2013

Bánh Wagashi - tinh hoa trong văn hóa ẩm thực Nhật Bản

Wagashi với đời sống của người dân Nhật Bản
Hương vị tinh tế, màu sắc phong phú, tràn đầy ẩn ý… những chiếc bánh cổ truyền của xứ Phù Tang – có tên gọi chung là wagashi.

 
Wagashi là những tác phẩm nghệ thuật nho nhỏ làm thỏa mãn nhu cầu sâu xa về cái đẹp của khách ẩm thực. Nó có thể là một cánh bướm nhỏ, một nụ hoa anh đào chớm hé, một chú họa mi xinh xinh… chỉ vài chiếc bánh đã đủ làm cho người ta cảm thấy mùa xuân đâu đây đang tới gần. Nhưng không chỉ có mùa xuân, “mùa nào thức ấy “, những chiếc bánh wagashi thường thay đổi theo mùa về hình dáng, về màu sắc, về thành phần, về hương vị. Wagashi có thể làm từ bột mì, bột gạo, bột các loại đậu trắng, đậu xanh, đậu đỏ… Thêm vào đó là những thứ trái cây sấy khô các loại thạch tảo, nước trái cây..cho bánh nhiều hương vị khác nhau.

Wagashi tượng trưng cho sự chung sống hài hòa với thiên nhiên. Người làm wagashi luôn lấy cảm hứng từ thiên nhiên bốn mùa của trời đất, từ văn chương, nghệ thuật, thơ ca. Những cơn mưa hè mát mẻ theo sau những đóa hoa xuân, qua mùa thu sắc vàng lại đến những bông tuyết tinh khiết đầu đông… người làm wagashi sáng tác không ngừng.
 
Lịch sử hình thành loại bánh Wagashi

“Wa” có nghĩa là Nhật Bản, còn “gashi” – điệp âm của kashi – mang ý nghĩa bánh ngọt. Wagashi xuất hiện từ thời Yayoi (300 TCN – 300), nhưng khi đó chúng không khác gì với các loại quả, dâu và các hạt tự nhiên. Suốt kỷ nguyên Nara (710-784), wagashi bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các phương thức chế biến lương thực du nhập từ Trung Quốc cùng nền văn hoá Phật giáo. Kiểu dáng của hầu hết các loại wagashi ngày nay đều bắt nguồn ở giai đoạn này. Tuy nhiên, lúc bấy giờ chúng được sử dụng chính yếu vào mục đích tôn giáo và quá đắt đỏ đối với với tầng lớp bình dân. Đến cuối kỷ nguyên Muromachi (1336-1573), khi Nhật Bản mở cửa giao thương với nước ngoài, cách chế biến wagashi lại bị ảnh hưởng bởi công thức và các thành phần nguyên liệu du nhập từ Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Sự xuất hiện của đường ăn đã làm nên một cuộc cách mạng trong công thức chế biến wagashi, yếu tố đã ảnh hưởng đến hương vị tự nhiên cũng như làm đòn bẩy cho sự phát triển của chúng đến tận bây giờ. Cho đến thời Edo (1603-1867), nghệ thuật làm wagashi mới trở nên thịnh hành. Ngành kinh doanh buôn bán wagashi đã trải qua và phát triển mạnh mẽ tại Kyoto, Edo cũng như các vùng khác. Các loại wagashi hảo hạng đã xuất hiện trong giai đoạn này. Mục đích sử dụng wagashi cũng đa dạng hơn. Chúng bắt đầu xuất hiện trong các tiệc trà, các bữa ăn chiều nhẹ và còn được dùng làm quà biếu. Suốt thời Minh Trị (1868-1912), việc du nhập các món tráng miệng và các loại bánh ngọt phương Tây đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của wagashi. Đến cuối thời Taisho (1912-1926), từ “wagashi” mới hình thành để phân biệt với các loại bánh Tây khác. Mặc dù bị ảnh hưởng bởi nhiều nền văn hoá ngoại lai trong nhiều thế kỷ nhưng wagashi vẫn luôn mang trong mình ý thức nghệ thuật của dân tộc Nhật.

Mặc dù bánh Wagashi bị ảnh hưởng bởi văn hóa nước ngòai trong những thập kỷ vừa qua nhưng chúng vẫn được những nét văn hóa riêng của Nhật và tiếp tục trở thành 1 phần ko thể thiếu trong văn hóa Nhật.
Thành phần chính của Wagashi

Các nguyên liệu dùng chế biến wagashi thường có nguồn gốc từ thực vật và rất giàu chất xơ như các loại đậu, bột nếp, bột mì, bột gạo, khoai tây, vừng, katen (một loại thạch làm từ rong biển), đường ăn,… Wagashi có được sự phong phú, đa dạng phần lớn do các phương thức chế biến và thành phần nguyên liệu tạo nên.
Ở Nhật có hàng trăm loại wagashi khác nhau, mỗi loại có thành phần riêng biệt , nhưng nhìn chung chủ yếu đc làm từ các nguyên liệu chính rất quen thuộc đối với người Nhật.
1.Azuki (đậu)

Có 2 loại azuki là red azuki ( đậu đỏ) và white azuki ( đậu trắng) . Đậu ở Nhật được trồng và thu hoạch theo phương pháp đặc biệt, Khi làm wagashi, người ta nấu chúng thành những hỗn hợp đặc, nhão được gọi là “An ” . Thông thường, “An” được dùng làm nhân của wagashi
2. Kanten
Một nguyên liệu màu trắng làm từ tảo biển , rất giàu chất xơ, được dùng để làm các món wagashi giống như thạch rau câu như Yokan
3.Wasambon
Đường chuyên dùng để làm wagashi , được chế đặc biệt từ những cây mía ở Tokushima. Có vị rất thanh .
Một vài loại wagashi điển hình
4.Namagashi
Một loại bánh được làm thủ công và tùy theo mùa mà sẽ có những cách trang trí khác nhau. Hình dạng của namagashi gợi nhớ đến hình ảnh 1 nước Nhật với 4 mùa tươi đẹp. Đó là hình ảnh của hoa lá đam chồi nảy lộc khi xuân về , của cây lá xanh tươi mùa hạ, màu rực lửa của cánh rừng mùa thu và sức sống mãnh liệt cảu hoa mận mùa đông.
Hai nguyên liệu được sử dụng làm namagashi là mochi (gạo hấp giã thành bột nhão) và một loại bột nhào làm từ đậu đỏ, đôi khi được thay bằng đậu trắng. Các kiểu dáng thanh nhã của namagashi đã phản ánh nhiều khía cạnh khác nhau của thiên nhiên bốn mùa tại Nhật Bản. Chúng gợi lên sự hứa hẹn của mùa xuân qua các chồi non e ấp, giọt sương trên những chiếc lá xanh mùa hè, vẻ đẹp rực rỡ của tán lá mùa thu và cảm xúc mãnh liệt của những chùm hoa mận lúc đông sang.
5.Yokan

Một loại bánh có vị giống thạch , được làm từ đậu đỏ, kanten và đường, rất phổ biến vào mùa hạ. Món bánh này rất phổ biến vào thời Edo và thường đc dùng làm quà tặng.
Yokan là một loại bánh rau câu dày được làm từ bột đậu azuki (đậu đỏ), katen và đường; Yokan là một trong số những loại bánh truyền thống Nhật Bản phổ biến nhất đã phát triển trong suốt thời Edo vì khi đó đường ăn đã trở nên tiện dụng. Nó có thể bảo quán lâu hơn và thường được dùng làm quà biếu.
6.Monaka
Monaka là loại bánh có lớp vỏ mỏng, xốp giòn làm từ bột nếp, ở giữa kẹp nhân đậu đỏ. Vỏ bánh thường được làm thành hình hoa anh đào hoặc hoa cúc.
7.Manju

Một dạng bánh hấp nhỏ. Bột nhào làm từ jojo (củ từ) hoặc bột mì hấp, rồi nặn thành một chiếc bánh bao nhỏ ở giữa là nhân đậu xay.
8.Higashi (Wagashi khô)
Làm từ bột gạp nếp, đường được đánh tơi. Hỗn hợp bột nếp, đường, tinh bột hoặc wasambonto (loại đường ăn lâu đời nhất của Nhật Bản được làm từ một giống mía hiếm tại quận Tokushima) được nén vào khuôn để tạo thành những chiếc bánh in khô.
Trên thực tế, người ta không thể thống kê hết các loại wagashi vì mỗi loại đều có cách thể hiện độc đáo, riêng biệt. Các kỹ thuật làm bánh bằng tay truyền thống cũng giúp người thợ có thể tự do chuyển tải cảm xúc, thể hiện ý tưởng của mình và tô điểm thêm cho vẻ ngoài của wagashi khiến chúng trở thành đoá hoa muôn hương ngàn sắc trong nghệ thuật ẩm thực Nhật Bản. Riêng bản thân wagashi cũng thể hiện nhiều vẻ đẹp khác nhau của thiên nhiên qua hình dạng nhỏ bé của mình.
9.Hanabiramochi

Một món bánh rất hay đc người Nhật ăn vào dịp đầu năm mới . Tên gọi Hanabiramochi thực chất có nghĩa là ” loại bánh có hình dạng cánh hoa” ^ ^
Món này có nguồn gốc từ Hishihanabira ( một món bánh được Hoàng gia ăn vào dịp năm mới) , nó trở nên phổ biến vào thời Minh Trị
10.Taiyaki
Bánh cá nướng , thường có nhân đậu đỏ , ăn vào những khi trời lạnh, là món quà mà trẻ em và người già rất ưa thích .
Không thoát khỏi ảnh hưởng của kiểu sinh hoạt truyền thống theo khí tiết, wagashi cũng được làm để miêu tả các sự kiện theo mùa. Sự chuyển đổi về mùa được đánh dấu qua mỗi loại wagashi đặc trưng. Chẳng hạn Sakura Mochi (bánh hoa anh đào làm từ gạo) và Kashiwa Mochi (bánh bột gạo gói lá sồi) chỉ có trong mùa xuân. Các loại wagashi mùa hạ thì lại mang hình dáng của những bông hoa tú cầu, hay chứa nhiều độ ẩm (như Mizuyokan) để xua đi tiết trời oi ả những ngày nắng nóng. Vào mùa thu, wagashi lại chuyển tải vẻ nhẹ nhàng lãng mạn của thiên nhiên qua kiểu dáng của những bông loa kèn, bông cúc hay những chiếc lá cây vàng đỏ, trong khi đó, hoa trà, hoa thuỷ tiên hay tuyết trắng,… lại là đề tài để thể hiện xuyên suốt trong những ngày đông chí.
Với những điều thú vị trên về wagashi, các bạn đi du học nhật bản hoặc các bạn có dịp sang nhật hãy thưởng thức loại bánh này nhé.
Chúc vui vẻ!



Liên hệ tư vấn du học Nhật Bản miễn phí:       Hotline: 0905234977

Văn hoá kinh doanh Nhật Bản - Du Học Nhật Bản

Hầu như chỉ vài năm sau đó, Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi và Nhật bước vào thời kỳ phát triển kinh tế “thần kỳ” của Nhật trong giai đoạn 1966 – 1973 đã giúp Nhật trở thành một cường quốc kinh tế đứng hàng nhất, nhì trên thế giới. Sự phát triển đó được thế giới chú ý và nhiều người đã tìm hiểu những nhân tố nào giúp phục hồi và vươn lên nhanh một cách đáng kinh ngạc. Một trong những nhân tố được chú ý nhiều đó là phong cách hay đặc trưng văn hoá trong kinh doanh của người Nhật chứa đựng trong các mô hình quản lý, sản xuất, tiêu thụ và lưu thông sản phẩm và trong tính cách, tâm lý người Nhật trong khi kinh doanh.
Việc tìm hiểu văn hoá kinh doanh của người Nhật giúp ta giao tiếp xuyên văn hoá được với họ và hiểu được các giá trị đã hình thành nên hành vi và giáo tiếp của họ, cũng như để tránh được những hiểu lầm đáng tiếc có thể xảy ra, tạo được mối quan hệ làm ăn lâu dài và có hiệu quả trong quá trình tiếp xúc với họ. Ngoài ra, qua đó, ta có thể học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm quý báu trong cách phương thức, quan niệm và mô hình quản lý, làm việc hiệu quả của họ…
Ngày nay, rất nhiều người Nhật đã và đang, sẽ làm việc với Việt Nam, mối quan hệ giao thương giữa hai quốc gia ngày càng phát triển hơn. Trong quá trình tiếp xúc, giao thiệp với người Nhật, ít nhiều gì chúng ta thường cảm thấy lúng túng hoặc không hiểu nhiều về họ và ngược lại, khiến cho công việc giữa hai bên không đạt được hiệu quả cao, hoặc chúng ta sẽ mất cơ hội làm ăn hay phải chịu thiệt thòi hơn…. Do vậy, ngày nay việc tìm hiểu về người Nhật và văn hoá kinh doanh của họ dù ít hay nhiều cũng thực sự là rất cần thiết và hữu ích cho chúng ta.
Có rất nhiều (hơn 400) định nghĩa về văn hoá, nhìn chung tất cả định nghĩa đều có nét chung “văn hoá là những hệ thống giá trị do con người sáng tạo ra”. Trong giai đoạn hiện nay, văn hoá được xem là động lực phát triển kinh tế. Thực tế, văn hoá đã đóng vai trò trong sự phát triển kinh tế nhiều quốc gia như vai trò của Khổng Giáo, Phật giáo, Shi n to giáo .. và nhiều giá trị văn hoá truyền thống dân tộc khác trong sự tăng trưởng kinh tế của Nhật, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, … trong đó, rõ ràng nhất là trường hợp Nhật Bản, góp phần hình thành nên nền văn hoá kinh doanh đặc thù của Nhật Bản mà ngày nay nhiều quốc gia phải quan tâm nghiên cứu, học hỏi…
Người Nhật hay thương gia Nhật quan niệm trước hết tự coi mình là một người Nhật thực sự, xí nghiệp là hàng thứ hai. Tìm hiểu văn hoá kinh doanh của người Nhật thì chắc chắn là không thể không tìm hiểu về chủ thể của nền văn hoá kinh doanh đó là người Nhật. Mark Zimmeran – một nhà kinh doanh nổi tiếng người Mỹ, và là cố Chủ tịch Phòng thương mại của Mỹ ở Nhật Bản năm 1981 – đã viết trong cuốn sách nổi tiếng “Làm ăn với người Nhật như thế nào” của ông: “việc nghiên cứu kỹ càng và nghiêm túc tâm lý người Nhật và cấu trúc xã hội của nước Nhật là cực kỳ cần thiết cho việc làm ăn có hiệu quả với người Nhật”.
Người Nhật (Nihonjin): chủ thể của nền văn hoá nói chung và văn hoá kinh doanh của Nhật Bản
Một số đặc trưng tính cách, tâm lý người Nhật: tính cách của người Nhật chịu ảnh hưởng nhiều điều kiện tự nhiên – địa lý, lịch sử – văn hoá – xã hội:
Nhật Bản là một trong những nước có thành phần dân tộc thuần nhất với hơn 99% dân số là người Nhật, số ít ỏi còn lại là người Ainu (một tộc người cổ xưa nhất ở Nhật Bản, chủ yếu sống ở Hokkaido), người Triều Tiên (phần lớn di cư sang trong chiến tranh thế giới lần hai), người Trung Quốc và một số ít các cư dân từ nước khác đến cư trú tập trung theo khu vực riêng. Tuy nhiên, ý thức dân tộc thuần nhất của họ rất cao nên cho dù những người thuộc thiểu số gần 1% dân số dù đã sinh sống ở Nhật lâu đời vẫn không được đa số người Nhật xem là “người Nhật”. Do hầu như thuần nhất như thế, nên Nhật Bản có một nền văn hoá và trạng thái tâm lý khá thống nhất và tự cho họ là dòng giống thượng đẳng, tự tôn dân tộc cao…. Nhật Bản (xứ sở mặt trời mọc) là một quốc gia nằm tách biệt với đại lục, có đến hơn 6.800 hòn đảo lớn nhỏ và 4 đảo lớn (Hokkaido, Honshu, Kyusyu, Shikoku). Tính chất đảo mang đến cho Nhật Bản những khó khăn (khó giao lưu, giao thông …) và thuận lợi (trong lịch sử tránh được các cuộc chiến tranh xâm chiếm của người Trung Hoa, Nguyên Mông …) nhưng đã làm nên tính thống nhất và thuần nhất của nền văn hoá văn minh dân tộc Nhật. Do vị trí đặc biệt này nên người Nhật có được thế chủ động tiếp thu có chọn lọc và tiếp biến các yếu tố văn hoá của các dân tộc khác (Trung Hoa,…) tạo thành nền văn hoá riêng mang bản sắc của họ. Tính chất đảo cũng đem lại cho người Nhật tâm lý “đảo quốc” (shimakuni), khiến họ vừa hiếu khách, vừa dè dặt trong giao tiếp, quan hệ với người khác, vừa tự tôn dân tộc, vừa tự ti, mặc cảm, có thái độ bài ngoại,… Người Nhật luôn vừa muốn nhìn ra thế giới, học hỏi, du nhập những giá trị văn hoá và tiếp thu những thành tựu mới của thế giới vừa rất bảo thủ và thu mình trong việc tiếp thu cái mới, chẳng hạn như các cuộc cải cách trong lịch sử Nhật Bản như Taika (năm 645), cải cách Minh Trị (1868) đều diễn ra sự đấu tranh gay gắt giữa thế lực thủ cựu và tư tưởng mới…

Thiên nhiên của Nhật rất đẹp, nhưng rất khắc nghiệt với khí hậu bốn mùa rõ rệt, thường xảy ra nhiều thiên tai dữ dội như động đất, núi lửa, hạn hán; sóng to bão lớn; địa hình với ¾ là núi đồi, diện tích trồng trọt chỉ chiếm 1/6 và sông ngòi ngắn, tài nguyên thiên nhiên ít ỏi, đất đai không màu mỡ và không thích hợp cho trồng trọt. Tuy nhiên cho đến đầu thế kỷ XX, kinh tế chủ yếu của Nhật Bản là nông nghiệp, đánh bắt cà biển và họ phải bỏ ra rất nhiều công sức lao động, cải tạo đất đai – hình thành nên tính cách gan góc, cần cù, vượt khó truyền thống yêu lao động đến quên mình và nhiệt tình trong mọi lĩnh vực lao động (đặc trưng quan trọng nhất), quý trọng thành quả lao động, tiết kiệm và tạo tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng và tinh thần hoà hợp (wa) rất cao như dựa vào và sống hào hợp với tự nhiên, cùng hiêp lực với nhau chống chọi với thiên tai…. Đồng thời điều kiện địa lý, thiên nhiên vừa đẹp vừa khắc nghiệt, tạo ra một tâm hồn Nhật Bản có nét chung là yêu cái đẹp, theo đuồi sự hoàn thiện không ngừng, tạo ra sự tương phản có tính dữ dội trong tính cách người Nhật. Cái gì ở Nhật Bản cũng được đưa lên cao và chiếm vị trí quan trọng trong đời sống của họ như “hoa đạo”, “trà đạo”, “võ sĩ đạo”, “kiếm đạo”, “cung đạo”, “thư đạo”, nghệ thuật gấp giấy origami,.. và họ thể hiện ý thức đặc biệt đối với cái đẹp như ngắm hoa hanami, ngắm trăng tsukimi; quan niệm “cái nhỏ là cái đẹp, cái tinh tế” …; trong công việc luôn làm hết mình, trong xử sự luôn theo quy tắc nghiêm ngặt, theo đẳng cấp, ngay đến cả cái chết tự sát vì lòng trung thành cũng dữ dội và trở nên cao cả như “mổ bụng” (harakiri hay seppuku) hay sằn sàng làm việc hết sức cho công việc…. Những điều này ăn sâu vào trong cách xử thế, ý nghĩ và nguyện vọng của dân tộc Nhật, tạo thành những truyền thống văn hoá riêng đặc sắc và thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc của họ. Họ kế thừa, củng cố những nét văn hoá đó và vay mượn, cải biến nền văn hoá nước ngoài, biến thành một bộ phận trong văn hoá truyền thống của họ.

Lịch sử Nhật Bản cũng là lịch sử độc đáo với một Hoàng gia duy nhất, vị đại diện tối cao của Thần đạo (Shinto) tôn thờ các thần Kami như thần cây, thần đá… – các Thiên Hoàng với dòng dõi truyền thuyết là con cháu nữ thần Mặt trời Aramatesu, tồn tại như là sự thống nhất của nhân dân cho đến tận ngày nay; và trên nước Nhật có nhiều cuộc nội chiến liên miên giữa các lãnh chúa phong kiến. Điều kiện lịch sử – xã hội phong kiến với sự cát cứ, tranh dành khiến lòng trung thành là điều rất quan trọng. Cùng với sự tiếp thu có chọn lọc và biến những tư tưởng của Khổng Tử tạo thành Nho giáo riêng Nhật Bản, với tinh thần Võ sĩ đạo (Bushido) coi lòng trung thành (chuu) với người chủ là trên tất cả… Sang đến thế kỷ XIX, đứng trước yêu cầu mới hoặc là phải mạnh mẽ để thoát khỏi số phận trở thành thuộc địa của phương Tây hoặc là chịu chung số phận với các nước châu Á khác, phong kiến Nhật Bản đã chọn con đường nhìn ra thế giới, thực hiện cách mạnh Minh Trị duy tân (1868) mọi mặt xã hội và học tập, phát triển mạnh mẽ – và trở thành nước duy nhất ở Châu Á thoát khỏi số phận lệ thuộc và đứng ngang hàng với phương Tây hùng mạnh và còn đi xâm lược nước khác, khiến phương Tây phải kinh sợ. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, họ lại nhanh chóng phục hồi nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá thảm bại thành một nền kinh tế “phát triển thần kỳ” và mạnh mẽ cho đến tận ngày nay. Nhật Bản lại tiến ra đi khắp thế giới mở rộng với kiểu cách thức buôn bán kinh doanh đặc trưng của họ … Người Nhật ngày nay vừa phát huy truyền thống văn hoá kinh doanh của họ và họ cũng đang dần thay đổi tính cách, tâm lý của họ để dễ làm ăn quan hệ với nước ngoài, học hỏi nước ngoài để làm phong phú và hoàn thiện hơn nền văn hoá kinh doanh của họ, đem lại lợi ích cho quốc gia của họ, và giữ vững vị trí cướng quốc kinh tế nhất nhì của họ, ….

Tóm lại, người Nhật là chủ thể của nền văn hoá, trong đó có văn hoá kinh doanh của họ. Tính cách tâm lý, cách xử thế, suy nghĩ, tư tưởng và hành vi của họ là những nhân tố quyết định trong văn hoá kinh doanh của họ.
 
 Liên kết web: du hoc nhat ban
Liên hệ tư vấn du học Nhật Bản miễn phí:       Hotline: 0905234977
 

Những điều cần kiêng kị ở Nhật

Không riêng gì đất nước Nhật Bản, khi đến với một nền văn hóa mới, các bạn nên tìm hiểu về phong tục tập quán và những điều nên-không nên làm. Dưới đây là một số sưu tầm về những điều kiêng kị trong văn hóa Nhật Bản để các bạn có thêm chút kiến thức khi đặt chân tới xứ sở hoa phù tang:
1. Con số 4: Bị cho là con số không may bởi vì phát âm của nó giống với phát âm của chữ “Tử” (Shi=cái chết). Một số khách sạn thậm chí còn không có phòng số 4.
2. Cắm đũa lên bát cơm
Người nhật không bao giờ cắm đũa lên thức ăn và đặt biệt là lên cơm vì chỉ trong đám tang người ta mới cắm đũa lên bát cơm và đặt lên bàn thờ.

3. Không được dùng đũa để chuyền thức ăn vì trong đám tang người ta dùng đũa để chuyền những mảnh xương còn sót lại sau khi hỏa táng.
4. Khi ngủ không được quay đầu về hướng Bắc
Vì người ta thường đặt người chết nằm như vậy.

5. Xe tang
Nếu bạn gặp một chiếc xe tang đi ngang qua, bạn phải giấu ngón tay cái của mình đi
6. Cắt móng tay ,móng chân vào ban đêm
Nếu bạn cắt móng vào ban đêm thì khi cha mẹ bạn mất bạn sẽ không được ở bên cạnh họ
7. Sau khi ăn xong không được nằm ngay
Người ta nói ăn xong mà nằm ngay thì sẽ bị biến thành con bò
8. Huýt sáo vào ban đêm
Nếu huýt sáo ban đêm thì sẽ bị ông Xà đến thăm đó.
9.Khi đi trên đường phố, không nên vừa đi vừa ăn, bằng không sẽ bị các cụ già khiển trách.
10. Khi đi thăm người ốm, dứt khoát không được tặng hoa, trà hoặc những hoa có chậu. Bởi vì người nhật cho rằng đó là điều không tốt.
11. Ở nhật giơ ngón tay cái lên không phải là ý tốt mà có ý là chỉ người bạn trai. Và giơ ngón út có ý là người bạn gái. Vì vậy, khi ở nhật không nên tùy tiện làm hiệu tay để tránh sự hiểu lầm.
12. Người nhật thường nói những câu tỏ ý xin lỗi như: xin lỗi, cảm ơn, phiền bạn v.v… Khi đến nhà bạn bè ăn cơm hay dự lễ cưới kiểu nhật, có một số người Nhật khi ăn, cố ý để thừa lại một chút, sau đó gói mang về. Đây là sự tỏ ra lễ phép chứ chẳng có gì là lạ. Khi ăn cơm, đũa nên để ngang chứ không nên để dọc. Vì người nhật cho rằng đũa để thẳng là không tốt. Khi ăn họ rất kỵ đũa quèn quẹt hoặc bới đi bới lại hay chọt v.v… Đây là thói rất xấu khi ăn cơm… . .
13. Ở Nhật, khi đi mua bán, mặc cả là điều thất lễ. Trong các cửa hàng, đại đa số các mặt hàng đều có giá cả rõ ràng, không thể bớt được. Người nhật rất thích đóng gói. Mà tất cả các loại giấy để đóng gói đều rất đẹp. Vì vậy, khi mua hàng không mất bao nhiêu thời gian để gói. Không nên tặng mùi xoa cho bạn bè. Chỉ làm điều đó một khi bạn muốn cắt đứt quan hệ. Không được tùy tiện biếu trà cho người khác. Vì đây là lễ vật mà người nhật đáp lễ sau khi cúng bái.
14. Không được biếu giày dép, bít tất và quần áo lót cho cấp trên hoặc người lớp trên. Bằng không họ sẽ nghĩ là không kính trọng họ.
 
 
 Tìm hiểu thêm: du học nhật bản

Đôi nét về văn hóa Nhật Bản qua từng hành động

Cùng là người Châu Á, da vàng, tuy khác đất nước nhưng lại cùng nền văn hóa Á đông. Nhưng đôi khi nhìn ngẫm 1 số nét văn hóa trong cách sống của người Nhật chợt khiến tôi phải mỉm cười.
Chuyện tặng quà:
Người Nhật nổi tiếng là lễ nghi trong vấn đề quà tặng,1 khi nhận được quà của ai đó thì kiểu gì cũng sẽ tìm cách để đáp lễ lại. Khi đi dự đám cưới ,đám tang về thì sau đó gia chủ bao giờ cũng tặng quà lại cho khách để thể hiện sự hàm ơn vì khách đã đến dự lễ. Quà đó chỉ là những món đồ rất nhỏ nhưng luôn được bọc gói vô cùng cẩn thận và đáng yêu khiến cho người nhận cũng sẽ rất cảm kích vì sự chu đáo của gia chủ.

Chuyện xếp hàng:
Người dân xếp hàng bên ngoài một cửa hàng ở Sendai

Cho dù ở siêu thị, cửa hàng ăn, ga tàu hay những nơi dịch vụ công cộng,thì người Nhật luôn có thói quen xếp hàng. Họ có thể xếp hàng chờ trước giờ mở cửa siêu thị cả tiếng đồng hồ để chờ vào mua đồ. Cũng có lúc tôi nghĩ thật kì khôi cho sự kiên nhẫn đó nhưng có lẽ tôi lầm. Đó chính là sự tuân thủ kỷ luật của hệ thống xã hội,cũng như nét văn mình ứng xử khi biết nhẫn nhịn chờ đến lượt mình, chứ không phải chỉ biết đến cái tôi vị kỷ.


Chuyện ý thức bảo vệ môi trường:

Đó là ý thức trong cách xử lý rác thải. Từ học sinh tiểu học đã được giáo dục về việc phân loại rác cũng như ý thức bảo vệ môi trường.Nguyên liệu tái chế,hay tác hại chất thải nhà bếp chắc hẳn là những khái niệm khá xa vời đối với người Việt ta,nhưng với người Nhật thì đó là khái niệm nằm lòng.Dầu mỡ sau khi rán thay vì đổ xuống đường thoát nước thì phải được thấm sạch bằng giấy báo hoặc để đông cứng rồi mới gói lại vứt bỏ để tránh làm ô nhiễm nguồn nước thải...Đơn giản nhất là điều đó ,thế mới lý giải được vì sao không khí lại sạch sẽ thế.Là vì chính ý thức con người đã lọc sạch bầu không khí mà họ hít thở hàng ngày.

Chuyện yêu thiên nhiên cây cỏ và ca hát:

Có 1 điều chắc chắn rằng nếu bạn đi qua cửa bất cứ 1 ngôi nhà nào của người Nhật cũng thấy được bày 1 vài chậu cây hoa nhỏ ở trước cửa. Những chậu hoa nhỏ đủ màu quanh năm khoe sắc chắc là 1 thú vui ko thể thiếu của người Nhật,hẳn sẽ mang lại niềm vui mỗi khi ai đó đặt chân về đến cửa nhà.

Tôi thường xem chương trình Karaoke trên TV và thực sự là nhiều lần rơi nước mắt xúc động vì những câu chuyện và hình ảnh về con người tham gia chương trình đó. Nước Nhật là nơi đã bắt nguồn ra hình thức giải trí hát Karaoke hẳn cũng đã phần nào lý giải cho cái sự yêu ca hát của người Nhật. Trước khi đến Nhật thì cái nhìn của tôi về việc hát Karaoke hoàn toàn khác, bởi ở VN thì có lẽ đó chỉ là kiểu giải trí đặc quyền dành cho giới trẻ, chả có cụ già hay rất ít người trung niên lại đi hát Karaoke, chưa kể 1 số biến tướng tiêu cực của hình thức giải trí này.Nhưng với người Nhật thì đây hoàn toàn là 1 thú vui trong sạch, có thể hát ở quán, hát ở phòng ăn...và người già còn tích cực hơn cả lớp trẻ, đơn giản chỉ là để cùng hòa mình theo giai điệu cùng chia sẻ cảm xúc.Không phải ai cũng hát hay, nhưng họ không ngại biểu diễn trên trương trình Karaoke của TV.



Có những em học sinh, những anh công nhân, những cụ già lom khom vẫn lên hát để gửi tặng gia đình người thân. Hình ảnh 1 cụ già 85 tuổi dáng người cong,vẫn cất cao giọng hát điệu nhạc truyền thống Nhật bản, và thật không ngờ cụ lại được ban giám khảo cho số điểm cao nhất, đôi mắt rơm rớm tay run run đón nhận quà và trò chuyện cùng ban giám khảo mà khuôn mặt cụ ngời ngời hạnh phúc. Bất giác chợt khiến tôi liên tưởng đến hình ảnh của khát vọng sống. Sự khích lệ của tình người là 1 món quà xúc động vô giá cho cụ niềm vui để ý nghĩa hơn nữa những ngày dài phía trước.

Trong gió không thể lọc hết những hạt bụi bay, và đâu đó vẫn còn những điều khó ưa, tuy nhiên thiết nghĩ rằng cần phải biết lọc ra những hạt cát khỏi tâm hồn mình để cảm nhận được nhiều góc đẹp hơn.



Du học Nhật Bản: Học Nghề, Cao Đẳng, Đại Học, Cao Học Tại Nhật Bản Bao Lâu?

Để du học Nhật Bản, học sinh phải học tại trường tiếng ở Nhật từ 1,5 năm đến 2 năm mới có thể thi vào trường đại học. Sau đó, chuyển lên học tại các trường Dạy Nghề, Cao Đẳng hay Đại Học, cũng có một số ít trường Đại Học yêu cầu thi nên việc chọn vào học tại các trường có chuyên ngành mà mình muốn học bạn nên xem kỹ trường đó có yêu cầu thi hay không.

Riêng nghiên cứu sinh, phần lớn chỉ xét hồ sơ là cho nhập học (trước khi nộp đơn phải tìm giáo sư nhận hướng dẫn). Còn cao đẳng, trường kỹ thuật - chuyên nghiệp thì tổ chức thi tuyển hoặc xét hồ sơ căn cứ trên kết quả thi tiếng Nhật, thi môn học... Sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, nếu hội đủ điều kiện Bộ GD&ĐT quy định có thể học lên ĐH.

Thời gian các hệ học

Đại học: 
Sinh viên chính thức học 4 năm, nhưng học ngành y, nha, thú y học 6 năm. Sinh viên dự thính học một môn học đặc thù nào đó; điều kiện nhập học và số môn học được chấp nhận do dự thính tùy theo mỗi trường.

Sau đại học: 
Chương trình master học 2 năm và chương trình tiến sĩ (doctor) học 5 năm. Chương trình tiến sĩ phần lớn chia thành: Chương trình tiền kỳ tương đương với master (2 năm), và chương trình hậu kỳ (3 năm). Chương trình học lấy tiến sĩ của y, nha khoa và thú y là 4 năm. Tùy theo trường ĐH, thời gian quy định học lấy tiến sĩ có thể khác nhau.

Cao đẳng: 
Học 2 năm, nhưng có khoa như điều dưỡng học 3 năm. Trường kỹ thuật - nghiệp vụ: là trường dạy nghề, học từ 1 đến 3 năm (nhưng phần lớn học 2 năm). Trường trung học chuyên nghiệp: dạy nghề 5 năm (có môn học lâu hơn), dành cho đối tượng là học sinh đã tốt nghiệp trung học cơ sở.

Để tốt nghiệp ĐH trong 4 năm, sinh viên thường phải lấy được trên 124 môn học; thời gian 6 năm, sinh viên ngành y, nha khoa phải có trên 188 môn học, ngành thú y phải có trên 182 môn học. Về cao học (trên 2 năm), sinh viên cần có trên 30 môn học. Đối với cao đẳng, học 2 năm trở lên, cần có trên 62 môn học; nếu học 3 năm, cần có trên 92 môn học. Còn tốt nghiệp trường kỹ thuật thì thông qua kết quả kỳ thi cuối khóa, thi cuối năm học của trường.

Có 2 cách xin học bổng: Nộp đơn ở nước ngoài trước khi đến Nhật và nộp đơn sau khi đến Nhật. Hầu hết đối tượng nhận học bổng là sinh viên ĐH, nhà nghiên cứu. Ít có loại học bổng nào cấp toàn bộ kinh phí cho việc du học, phần lớn chỉ trợ cấp sinh hoạt phí, một phần tiền học nên người dự thi đi du học phải tính kỹ mọi phí tổn, chứ không thể chỉ dựa vào học bổng.

 Liên kết web: www.duhocnhatbanaz.edu.vn


10 mỹ nhân đẹp nhất Nhật Bản

Sở hữu làn da trắng sứ, đôi mắt to tròn và nụ cười rạng rỡ, Hoa hậu Nhật 1992 Norika Fujiwara đứng đầu top 10 người đẹp xứ sở hoa anh đào. Danh sách này do bảng xếp hạng uy tín Oricon bình chọn.

Được coi là Billboard của Nhật, Oricon là bảng xếp hạng do Oricon Style - công ty cung cấp thông tin âm nhạc hàng đầu của Nhật Bản - thực hiện.
1. Norika Fujiwara: Sinh năm 1971, Norika đăng quang Hoa hậu Nhật Bản năm 1992. Cô là diễn viên, người mẫu nổi tiếng của Nhật. Norika kết hôn năm 2007 và vừa ly dị hôm 23/3.
2. Sayuri Yoshinaga: Sinh năm 1945, Yoshinaga là diễn viên nổi tiếng của nền điện ảnh Nhật Bản. Cô nổi bật hơn nhiều diễn viên cùng trang lứa bởi tài năng diễn xuất cùng với vẻ đẹp trời phú. Yoshinaga từng góp mặt trong các phim Year One in the North, Our Mother, A Thousand-Year Love...
3. Yukie Nakama: Sinh năm 1979, cô là diễn viên, thần tượng âm nhạc rất được ngưỡng mộ tại Nhật Bản. Người đẹp từng tham gia trong các phim Love Song, Tomoko no Baai...và nhiều lần đoạt giải Diễn viên xuất sắc của Nhật Bản.
4. Kato Koyuki: Sinh năm 1976, Kato là một người mẫu thành đạt trước khi lấn sân sang lĩnh vực phim ảnh. Cô từng tham gia những bộ phim nổi tiếng như Đại chiến Xích Bích, The Last Samurai... 


a
5. Hitomi Kuroki: Sinh năm 1960, vẻ đẹp trong sáng này từng thống trị nền điện ảnh, truyền hình và sân khấu Nhật trong những thập kỷ cuối thế kỷ 20. Cô đã đóng các phim Dark Water, The Gate of Youth...

6. Nanako Matsushima: Sinh năm 1973, cô là diễn viên, siêu mẫu nổi tiếng của Nhật. Người đẹp kết hôn năm 2001 với bạn diễn trong phimGreat Teacher Onizuka và hiện đã có hai cô con gái.
7. Misaki Ito: Sinh năm 1977, gương mặt trong sáng, thánh thiện này là người mẫu, diễn viên ăn khách. Cô từng xuất hiện trong các bộ phim Last Love, About Love, Face to Face...
8. Yuko Takeuchi: Sinh năm 1980, Yuko được coi là một trong Tứ tiểu thiên hậu của Nhật Bản. Người đẹp kết hôn năm 2005 và đã ly hôn năm 2008. Cô có mặt trong các phim Ambition, Pride, Be with You, Innocent World...
9. Kou Shibasaki: Sinh năm 1981, gương mặt u buồn này là một trong những diễn viên hàng đầu tại đất nước anh đào với những vai diễn trongBattle Royale, Go, Orange Days... Cô còn là một ca sĩ tài năng đã bán được 4 triệu đĩa hát.
10. Meisa Kuroki: Sinh năm 1988, Meisa là gương mặt trẻ nhất trong top 10 người đẹp. Cô từng tham gia trong các phim Seeing the Same Moon, But, I love you...
 
 
 

Du Học Nhật Bản - Việc nên làm & không nên làm ở Nhật Bản



A1.    Cố gắng dùng natto (một dạng hạt đậu nành đã lên men). Trộn nó vào trong một ít mù tạt (wasabi), nước tương sau đó quấy đều lên ăn luôn hoặc rưới lên cơm. Khi bạn đã quen với cái mùi này thì nó thật sự là rất ngon.

A2.
    Lúc nào cũng phải kiên nhẫn. Người Nhật luôn có thói quen như vậy

A3.
    Cố gắng sử dụng nhà tắm công cộng hoặc tắm suối nước nóng. Nhưng bạn nhớ phải cởi hết đồ kể cả đồ tắm

A4.
    Khi bạn đi chơi và yêu cầu uống rượu sake hãy gọi từ “jun mai”. Đây không phải là nhãn hiệu nhưng là cách người Nhật vẫn quen dùng và nó cũng chứng tỏ bạn là một người hiểu biết.

A5.
    Hãy bỏ ra chút thời gian cho những của hàng tạp phẩm ở Nhật. Không chỉ bởi vì họ sẽ phát những mẫu sản phẩm miễn phí cho bạn mà ở đó có rất nhiều thứ lạ mắt được hạ giá mà bạn có lẽ chưa bao giờ nhìn thấy trước đây 

A6.
    Ăn những món ăn Nhật. Bạn dường như đã đi du lịch nửa vòng trái đất và tại sao lại ăn tại nhà hàng Mc Donard. Ở đây có rất nhiều món ngon và bổ dưỡng. Yakitori (gà chiên) là một cách ăn khá lạ (Đừng quên rửa trôi xuống cùng với bia tươi, ăn xong thì uống với bia) Nơi đây cũng là cả một thế giới sushi quanh bạn. Tiếp theo là những nhà hàng chuyên bán thịt, cá rán hoặc nướng, Izakaya (quán rượu của Nhật), quán bán mì ramen

A7.
    Thay vì thuê xe con và tiêu hàng giờ vì kẹt xe, bạn hãy đi bộ. Nếu như bạn quá mệt hoặc phải đi đến một nơi nào đó khá xa ở Nhật thì hãy đi bằng tàu điện. Chúng sạch, an toàn và đi đến bất cứ chỗ nào bạn cần. 
Tokyo Disneyland rất đáng để xem vì nó rất khác so với bất kì một công viên Disney nào khác trên thế giới.


A8.
    Hãy đến phố điện tử Akihara ở Tokyo. Bạn có lẽ chưa bao giờ nhìn thấy vài thứ như thế.

A9.
    Hãy làm một cuộc dã ngoại ra bên ngoài những thành phố lớn. Nếu như bạn ở Tokyo, hãy đi picnic đến Kamakura. Nó chỉ mất một tiếng rưỡi đi tàu điện và có khá nhiều thứ để xem và làm ở đó.

A10.
    Nếu như bạn ở Nhật vào đúng dịp ngắm "hoa anh đào" (chúng chỉ kéo dài một tuần hoặc hơn chút) Những công viên lớn như Ueno ở Tokyo thường rất rất đông người. Hãy tìm một vài nơi khác mà bạn có thể ngắm "hoa anh đào" thay vì đánh lộn với một đám đông.


Việc không nên làm ở Nhật:

B1.    Bạn không nên chan hay đổ nước tương (soya sauce) lên bát cơm của mình, điều này được cho là không bình thường khi ở Nhật.

B2.
    Không nên cắm đũa trong bát cơm của mình.

B3.
    Bạn đừng bao giờ mong người Nhật sẽ nói tiếng Anh với bạn. Hầu hết người Nhật đều biết không nhiều hơn một vài từ tiếng Anh và vì thế nó không đủ để tiến hành một cuộc hội thoại (lí do thì có người cho rằng người Nhật có lòng tự hào dân tộc cao nên không việc gì phải sử dụng tiếng ngoại quốc)

B4.
    Đừng có tức giận khi bạn ở trên tàu điện mà không thể cựa quậy được chút nào, hãy nhìn xung quanh bạn, ai cũng như vậy thôi. Bạn là một trong 120 triệu người bị nhét như cá hộp ở trên quần đảo Nhật Bản. Hãy quen với nó bởi vì có cáu gắt thì cũng chẳng thay đổi được gì.

B5.
    Cũng đừng có cáu gắt khi mà thức ăn trên đĩa bạn toàn là đồ thô, còn sống chưa được chế biến. Hãy thử ăn và sẽ thấy nó khá ngon.

B6.     Đừng có ăn vỏ của hạt đậu nành. Bạn hãy bóp hạt đậu giữa những ngón tay của bạn và ép hạt đậu thành miếng nhỏ bỏ vào miệng. Ném phần vỏ còn lại vào một cái bát đựng còn rỗng.

B7.
    Đừng có cố gắng mở hoặc đóng cửa xe taxi. Vì chúng hoàn toàn là tự động.

B8.
    Đừng có nghĩ 10.000 yên ở Nhật là nhiều tiền vì nó chỉ tương đương 100 usd thôi. 

B9.
    Đừng có bo khi ở nhà hàng Nhật. Không một ai cho tiền bo ở Nhật ngoại trừ những khách phương Tây khi không biết điều này.
Xem thêm thông tin tại website du học nhật bản !
 
 
 

Bóng chày – môn thể thao “vua” xứ sở anh đào

Đối với người Nhật, môn thể thao bóng chày (野球:yakyu) được ví như món ăn sashimi không thể thiếu trong mỗi bữa ăn hàng ngày. Vượt qua bóng đá là môn thể thao vẫn được ưa thích ở nhiều nước trên thế giới, bóng chày đã trở thành môn thể thao vua trên xứ sở hoa anh đào.
Giải bóng chày chuyên nghiệp của Nhật (NPB: Nippon Professional Baseball League) được chia thành 2 giải: Pacific League và Central League. Điểm khác biệt giữa 2 giải này ở chố: giải Pacific có sử dụng luật DH (Designated Hitter: chỉ định người đánh cho người ném đầu tiên) trong khi giải Central không sử dụng luật này. Đội thắng của 2 giải này sẽ gặp nhau tại Japan Series để phận định chức vô địch Nhật Bản.

1. Lịch sử bóng chày Nhật Bản:

Giải bóng chày chuyên nghiệp của Nhật bắt đầu từ năm 1937. Tuy nhiên, môn bóng chày đã được biết đến ở Nhật hơn nửa thế kỷ trước đấy. Vào khoảng những năm 1870, môn bóng chày được một số giáo viên và giáo sư Mỹ đưa vào Nhật Bản như là một công cụ để phô trương sức mạnh cơ thể và trí tuệ của các cầu thủ. Ở giải đấu đầu tiên, giải chuyên nghiệp mới chỉ có một giải và 8 đội tham gia thi đấu theo 2 mùa : mùa xuân và mùa thu. Vào năm 1950, giải mở rộng với 14 đội tham gia và từ đây được chia thành 2 giải riêng biệt với một số đội từ giải cũ chuyến sang giải mới. Sau nhiều năm, một số đội đã đổi tên so với ban đầu. Đội Bay Stars từng có tên là Whales, đội Swallows đầu tiên có tên gọi giống bây giờ nhưng vào những năm 1966 đến 1973 đã từng được đổi tên thành Atoms. Đội Marines từng được gọi là Orions, đội Buffaloes từng là Pearls, đội Blue Wave là Braves, và Fighters trước kia được gọi là Flyers.

2. Các đội bóng chuyên nghiệp:

Giải chuyên nghiệp NPB hiện có 12 đội thi đấu ở 2 giải Central League và Pacific League. Danh sách các đội như sau:

Central LeaguePacific League
Yomiuri GiantsDaiei Hawks
Hiroshima CarpSeibu Lions
Yokohoma BayStarsChiba Lotte Marines
Yakult SwallowsNippon Ham Fighters
Hanshin TigersKintetsu Buffaloes
Chuncihi DragonsOrix Blue Wave

Tên của các đội được gọi theo tên của công ty sở hữu đội bóng. Ví dụ: Yomiuri Giants thuộc sở hữu của công ty truyền thông Yomiuri phát hành tờ báo ngày nổi tiếng nhất Yomiuri Shimbun. Công ty này con sở hữu cả kênh truyền hình NTV. Đội Hiroshima Toyo Carp có tên gọi Toyo do phần lớn số cổ phần của đội thuộc về công ty sản xuất đồ trang sức Toyo Tire. Một phần cổ phần khác thuộc về thành phố Hiroshima. Đội Yokohama Bay Stars từng được sở hữu bởi công ty đánh bắt và chế biến hải sản Maruha nhưng cho đến thời gian gần đây đã thuộc sở hữu của đài phát thanh và truyền hình TBS, Tokyo. Đội Hanshin Tigers thuộc sở hữu của công ty xe điện Hanshin Railways, …vv.

Mỗi trận mỗi đội được phép sử dụng 4 cầu thủ nước ngoài: 2 cầu thủ trên sân và 2 cầu thủ ném bóng (pitcher). Mỗi đội còn có tham gia một giải thi đấu ở một giải thi đấu nhỏ khác có thể là Eastern League hoặc Western League. Ở giải này các đội có thể sử dụng số lượng các cầu thủ nước ngoài tùy thích.

3. Số trận một giải:


Cho đến năm 2000, các đội thường chơi từ 130 đến 135 trận một mùa. Tuy nhiên, từ mùa bóng năm 2001 đến nay, các đội thi đấu 140 trận trong một mùa giải. Các trận đấu sẽ phân định thắng thua sau 9 vòng đấu (回) Ở mỗi vòng đấu 2 đội sẽ thay phiên nhau đánh và phòng thủ: một đội đánh và một đội phòng thủ. Sau khi đội đánh có 3 cầu thủ bị ra ngoài, 2 đội sẽ đổi vị chí cho nhau để tiếp tục. Lượt đi của mỗi vòng được gọi là Omote (表), còn lượt về được gọi là Ura (裏 hoặc ウラ). Sau 9 vòng đấu nếu không phân biệt được thắng bại trận đấu sẽ kéo dài cho đến khi nào có đội thắng. Tuy nhiên, nếu sau 15 vòng đấu mà vẫn chưa phân định thắng bại thì trận đấu sẽ được tính là Hòa (Hikiwake: 引き分け). Các đội ở 2 giải Central League và Pacific League không thi đấu với nhau ngoại trừ tại các trận đấu của các ngôi sao (all-star games) và trận tranh chức vô địch Nhật Bản (Japan Series).

4. Trận đấu của các Ngôi sao:


Ở mỗi mùa thi đấu 2 giải Central League và Pacific League sẽ chọn ra 28 cầu thủ xuất sắc nhất tạo thành 2 đội thi đấu với nhau. Trong số 28 cầu thủ của giải Central League, cổ động viên bầu 11 cầu thủ, 17 cầu thủ còn lại do các huấn luyện viên chọn. Ỏ giải Pacific League các cổ động được bầu 12 cầu thủ (thêm một cầu thủ DH), số còn các huấn luyện viên bình chọn. Các đội bóng ngôi sao này tranh tài ở 2 hoặc 3 trận đấu vào đầu tháng 7 tại các sân khác nhau để phân thắng bại. Các cầu thủ của mội đội sẽ được chơi ở một số vòng đấu của một số trận đấu.Sau mỗi mùa thi đấu, khoảng 200 chuyên gia sẽ bỏ phiếu bình chọn ra 9 cầu thủ xuất sắc nhất ở 9 vị trí trên sân của mỗi giải để trao danh hiệu “Best Nine Awards”.

5. Giải thưởng:

Ngoài các giải như Chiếc Găng vàng (Gold Glove), Cầu thủ xuất sắc nhất (MVP: Most Valuable Player) hay Tân binh xuất sắc của năm (Rookie of the Year) giống như giải nhà nghề của Mỹ, giải chuyên nghiệp của Nhật còn trao thêm giải Sawamura Award cho cầu thủ ném bóng từ đầu trận xuất sắc nhất (the best starting pitcher). Cầu thủ này phải là người tham gia ném ở nhiều vòng đấu nhất và có số trận thắng nhiều nhất. Tuy nhiên, giải thưởng này sẽ không được trao nếu không chọn được cầu thủ xuất sắc nhất. Khoảng 40% giải thưởng MVP được trao cho các cầu thủ ném bóng. Giải thưởng MVP thường được chọn ra từ các cầu thủ của 2 đội vô địch và thường được chọn từ đội vô địch giải Central League.

6.Theo dõi trận đấu:

Các trận đấu thường diễn ra ở một số thành phố lớn như Tokyo hay Osaka do một số thành phố nhỏ không có các đội bóng riêng của mình. Như vậy, nhiều người đặc biệt là dân tại các vùng nông thôn có thể sẽ không có các đội bóng chủ nhà và không thể theo dõi các cầu thủ thi đấu trực tiếp. Để tránh sự bất lợi này tất cả các đội sẽ chơi 10-15 trận được thi đấu trên sân nhà “ngoài đường” (on the road) để dân chúng có thể theo dõi tận mắt các trận đấu. Các trận đấu trên các sân nhỏ tại các công viên hẻo lánh này không có bảng điểm điện tử và thậm trí không có cả đèn cao áp để thi đấu ban đêm.

7. Sân đấu:


Bảy trong số 11 sân đấu được xây từ năm 1988 đến 1999. (Hai đội Giants và Fighters chung nhau sân Tokyo Dome). 6 trong số này là sân đất cỏ: các đường chạy, điểm ném bằng phủ bằng đất cát; phần còn lại là cỏ. Một sân có kích thước 309-320 feet dọc theo các đường biên, 340-350 feet tới straightaway phải hoặc trái, 360-365 feet tới the gaps, và 400 tới dead center. Các sân đều có hàng rào cao 13 feet ngăn cách cầu thủ và khán giả.